Nâng cao tinh thần trách nhiệm, quyết định những vấn đề quan trọng vì sự phát triển bền vững của đất nước (*)

Sáng 7-5, Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã khai mạc tại Hà Nội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng khai mạc Hội nghị. Báo điện tử Ninh Thuận xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: dangcongsan.vn

Thưa các đồng chí Trung ương,

Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,

Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ năm để bàn các nội dung: Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung; Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí"; Xem xét, quyết định một số vấn đề về chính sách xã hội, tiền lương giai đoạn 2012 - 2020 và một số vấn đề quan trọng khác.

Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, các đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.

Thưa các đồng chí,

Hơn một năm qua kể từ sau Đại hội lần thứ XI của Đảng, chúng ta đã tổ chức thành công 4 hội nghị Trung ương, ban hành một số nghị quyết, kết luận quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao. Đồng thời, đã quan tâm đổi mới, cải tiến cách làm việc của các hội nghị Trung ương, coi trọng hơn việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Chính phủ để nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. Đảng đoàn Quốc hội đã khẩn trương chỉ đạo trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được thành lập và tích cực triển khai việc tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992; nghiên cứu, đề xuất những nội dung cơ bản về sửa đổi, bổ sung để trình Hội nghị Trung ương lần này. Ban cán sự đảng Chính phủ đã tích cực chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về phát triển kinh tế, xã hội trong hai năm 2011 - 2012; xây dựng và triển khai thực hiện đề án tái cấu trúc ba lĩnh vực đặc biệt quan trọng là: hệ thống ngân hàng thương mại, doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công; đồng thời đang chuẩn bị trình Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII Đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3; chuẩn bị phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đến năm 2020. Các cấp ủy và tổ chức đảng trong cả nước đã và đang nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng với quyết tâm cao, theo đúng kế hoạch, lộ trình. Đến nay, đã hoàn thành việc tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết toàn quốc và ở tất cả các đảng bộ cấp tỉnh, huyện và tương đương.

Với những nỗ lực phấn đấu to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, năm 2011, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, bước đầu kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, hoàn thành nhiều mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và độc lập, chủ quyền quốc gia. Bốn tháng đầu năm 2012, mặc dù còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong một số lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng và đầu tư kinh doanh bất động sản... nhưng kinh tế vĩ mô đã có những chuyển biến tích cực. Lạm phát và lãi suất đều giảm; tính thanh khoản của hệ thống các ngân hàng thương mại được cải thiện. Kim ngạch xuất khẩu tăng khá. Dự trữ ngoại hối tăng nhanh, tỉ giá giữ được ổn định. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng, trong đó giải ngân vốn FDI, ODA đạt khá. Sản xuất, kinh doanh vẫn có tăng trưởng. Hoạt động du lịch khá sôi động, lượng khách quốc tế tăng mạnh. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội được bảo đảm, các vấn đề xã hội bức xúc được quan tâm giải quyết. Trật tự, an toàn giao thông có mặt tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định. Công tác đối ngoại tiếp tục đạt kết quả tích cực.

Tôi đề nghị Ban Chấp hành Trung ương nhiệt liệt hoan nghênh và biểu dương những cố gắng và đóng góp to lớn, rất có ý nghĩa đó của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân cả nước.

Sau đây, tôi xin phát biểu một số ý kiến về các đề án trình Trung ương lần này, có tính chất gợi mở, nêu vấn đề mong các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.

1- Về tổng kết, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng điều chỉnh những quan hệ xã hội trọng yếu nhất, có tính nền tảng, thể hiện bản chất của nhà nước và chế độ; là đạo luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội và chủ quyền quốc gia. Vì vậy, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là công việc đặc biệt hệ trọng. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (tháng 7-2011) đã xác định những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, các định hướng lớn và phương châm, phương pháp tiến hành. Tại Hội nghị lần này, Trung ương sẽ xem xét, cho ý kiến đối với Báo cáo tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Đảng đoàn Quốc hội trình, làm cơ sở cho việc tiếp tục tu chỉnh các báo cáo và tiến hành xây dựng bản dự thảo Hiến pháp (bổ sung, sửa đổi) ở các bước tiếp sau.

Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt và tính chất nhạy cảm của vấn đề, việc tổng kết, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải bám sát những tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 2, có quan điểm và cách nhìn toàn diện, biện chứng, cụ thể, lịch sử; bám sát vào thực tế thi hành các quy định của Hiến pháp và các yêu cầu của tình hình mới. Tập trung đánh giá, khẳng định những kết quả nổi bật của Hiến pháp năm 1992 với vai trò là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới. Chỉ rõ những kết quả, mặt tích cực đã đạt được; những hạn chế, bất cập còn tồn tại và nguyên nhân. Chỉ ra những nội dung của Hiến pháp năm 1992 không còn phù hợp cần được bổ sung, sửa đổi; những nội dung quy định đúng, nhưng do thực hiện chưa tốt cần chấn chỉnh trong khâu tổ chức thực hiện. Các đề xuất định hướng sửa đổi, bổ sung phải dựa trên kết quả tổng kết thực tế 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; quán triệt đầy đủ mục đích, yêu cầu thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp. Chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, được thực tiễn chứng minh là đúng, đã chín muồi, có đủ cơ sở và được sự thống nhất cao.

Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 1992. Đó là: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp; các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội lập ra, có trách nhiệm báo cáo công tác và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Nhà nước ta không tam quyền phân lập.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 2, Đề án đã đề xuất một số định hướng lớn và nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, bảo vệ Tổ quốc, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước... Đề nghị Trung ương tập trung thảo luận kỹ từng đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể, đặc biệt là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau như nêu trong Tờ trình.

2- Về chính sách, pháp luật đất đai

Đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân và nguồn lực to lớn của đất nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt. Tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về đất đai lần này là một yêu cầu bức thiết nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong công tác quản lý và sử dụng đất đai, bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, người dân và nhà đầu tư, tạo nguồn lực và động lực mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực rất rộng lớn, hết sức phức tạp, có nhiều ý kiến khác nhau. Khi đánh giá tình hình và nguyên nhân, cần nắm vững các quan điểm và nguyên tắc cơ bản đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp để phân tích một cách toàn diện, khách quan kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp nêu trong Nghị quyết và pháp luật về đất đai; chỉ rõ nội dung của Nghị quyết đã được thể chế hóa như thế nào? Những điểm gì thể chế hóa đúng, chưa đúng? Những quan điểm, yêu cầu quan trọng nào của Nghị quyết chưa được thể chế hóa hoặc chưa được thực hiện một cách nghiêm túc? Tình hình thực hiện trong thực tế như thế nào? Những chủ trương, chính sách gì cần sửa đổi, điều chỉnh?...

Đồng thời với việc khẳng định những chuyển biến tích cực và những kết quả nổi bật đã đạt được trong gần 10 năm qua, cần nêu rõ những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Tập trung làm rõ vì sao nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội? Vì sao ở nhiều nơi, việc sử dụng đất còn lãng phí, hiệu quả thấp, tệ tham nhũng liên quan đến đất đai chậm được đẩy lùi? Vì sao gần 70% số vụ khiếu nại, tố cáo thuộc về lĩnh vực đất đai?... Đâu là nguyên nhân thuộc về quan điểm, chủ trương, chính sách nêu trong Nghị quyết và Luật Đất đai năm 2003? Đâu là do các quy định dưới luật còn bất cập; có quá nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn; và đâu là do việc tổ chức thực hiện yếu kém của các cơ quan quản lý nhà nước; do nhận thức chưa đầy đủ và ý thức chấp hành luật pháp chưa nghiêm?...

Trên cơ sở đó, đề xuất định hướng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện luật pháp, chính sách đất đai; chú ý các vấn đề hiện đang vướng mắc hoặc gây bức xúc trong xã hội và những nội dung còn có ý kiến khác nhau. Chẳng hạn như: Chế độ và hình thức sở hữu đất đai; chính sách giao đất nông nghiệp; thời hạn sử dụng đất nông nghiệp; hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền các cấp, nhất là trong việc quy hoạch, sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; xác định giá đất, thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người có đất bị thu hồi; giải quyết khiếu kiện về đất đai và điều tiết giá cả, lợi ích của các bên tham gia thị trường bất động sản. Chính sách, pháp luật về đất đai phải góp phần ổn định chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế; huy động tốt nhất nguồn lực từ đất đai để phát triển đất nước; bảo đảm cho thị trường bất động sản (trong đó có quyền sử dụng đất) phát triển lành mạnh; ngăn chặn tình trạng đầu cơ, tham nhũng, sử dụng lãng phí đất đai.

3- Về phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân và gắn trực tiếp với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đã sớm ban hành Nghị quyết của Trung ương, Pháp lệnh và tiếp đó là Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Chiến lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng và nhiều quyết sách khác; đã thành lập Ban Chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng ở Trung ương và các địa phương; đã tiến hành nhiều biện pháp liên tục, nhưng đến nay công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đại hội XI của Đảng nhận định: "Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội". Vì sao như vậy?

Để trả lời cho câu hỏi này, cần nhìn thẳng vào sự thật, phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc tình hình tham nhũng, lãng phí và kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhận dạng cho đúng những biểu hiện nổi bật của tham nhũng, lãng phí trong một số lĩnh vực chủ yếu như: đất đai, tài nguyên, đầu tư xây dựng cơ bản, thu chi ngân sách, mua sắm tài sản công; quản lý, sử dụng vốn và tài sản Nhà nước, nhất là tại các doanh nghiệp nhà nước; hoạt động tín dụng, ngân hàng; công tác tổ chức, cán bộ... Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình, quy mô, phạm vi, tính chất, mức độ so với trước đây và so với các nước. Khẳng định những kết quả, thành tích đã đạt được; đồng thời thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém. Từ đó, tìm ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là những nguyên nhân gốc rễ, nguyên nhân chủ quan gây ra tệ tham nhũng, lãng phí và dẫn đến những hạn chế, yếu kém đó. Phải chăng là do các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu chưa phát huy đầy đủ ý thức và bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện? Do sức chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng quá yếu? Do sự kém tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức? Do chưa phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của nhân dân, của công luận? Do những bất cập trong việc ban hành, thực thi các văn bản quy phạm pháp luật? Do mô hình tổ chức, hoạt động của ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng chưa phù hợp? Do sự yếu kém, tiêu cực trong công tác phát hiện và xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí?...

Trên cơ sở đó, đề ra những chủ trương, giải pháp quyết liệt, có tính đột phá, khả thi cao, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong lĩnh vực này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian tới.

4- Về một số chính sách xã hội và tiền lương giai đoạn 2012 - 2020

Trong quá trình chỉ đạo xây dựng Đề án một số vấn đề về an sinh xã hội và Đề án cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2012 - 2020, Bộ Chính trị nhận thấy cần xác định lại cách đặt vấn đề, phạm vi của hai đề án này cho phù hợp hơn với tính chất, tầm quan trọng của các nội dung và tình hình chuẩn bị các đề án có liên quan khác. Đề nghị Trung ương cho ý kiến về vấn đề này.

Liên quan đến Đề án một số vấn đề về chính sách xã hội: Như chúng ta biết, phát triển toàn diện, đồng bộ kinh tế và xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước đi là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới, được nhân dân hoan nghênh và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, là một nước nghèo, lại trải qua nhiều năm chiến tranh chống ngoại xâm, thường xuyên phải đối phó với thiên tai, dịch bệnh, nước ta đã và sẽ còn phải đương đầu với nhiều vấn đề xã hội bức xúc; ở nhiều nơi đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân còn hết sức khó khăn. Vì vậy, sẽ có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội hết sức to lớn nếu như tại Hội nghị lần này, Trung ương bàn và ban hành Nghị quyết chuyên đề Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn từ nay đến năm 2020, mà trọng tâm là chính sách ưu đãi đối với người có công và bảo đảm an sinh xã hội, với những nội dung chủ yếu là: bảo đảm việc làm, thu nhập, giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà ở, trợ giúp xã hội và bảo đảm một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân.

Muốn thế, phải đánh giá, phân tích đầy đủ, đúng đắn những kết quả đã đạt được, những hạn chế, yếu kém trong từng lĩnh vực và chính sách vừa nêu. Trên cơ sở đó và dự báo tình hình kinh tế - xã hội giai đoạn 2012 - 2020, xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho từng lĩnh vực và lộ trình, bước đi phù hợp, khả thi, thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Trong quá trình thảo luận, cần phân tích, làm rõ mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội; giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế. Xác định cho đúng và phát huy đầy đủ vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng - xã hội và cá nhân - gia đình. Phải chăng cùng với việc phát huy vai trò chủ đạo của Nhà nước, cần tăng cường xã hội hóa, khuyến khích các lực lượng xã hội tham gia và phát huy tinh thần tự lực, tự cường, phấn đấu vươn lên của mỗi cá nhân, gia đình và từng tổ chức, cộng đồng. Chú trọng phát huy tối đa mọi nguồn lực, trước hết là sử dụng có hiệu quả các chương trình mục tiêu hiện có?

Đối với Đề án một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, đề nghị Trung ương bám sát Kết luận của Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (tháng 8-2003), Hội nghị Trung ương 6 khóa X (tháng 01-2008) và kết quả thực tế triển khai thực hiện, cho ý kiến chỉ đạo về một số vấn đề cấp bách cần và có thể điều chỉnh ngay trong năm 2012, 2013. Ví dụ như: điều chỉnh tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang và lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp lại đơn vị sự nghiệp công theo tinh thần Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa X; khắc phục những bất hợp lý về tiền lương và thu nhập của cán bộ lãnh đạo, quản lý và của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước; điều chỉnh trợ cấp ưu đãi người có công, lương hưu và bảo hiểm xã hội; xem xét trình Quốc hội bổ sung, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội...

Đồng thời trao đổi, thống nhất về chủ trương, định hướng cho việc nghiên cứu, chuẩn bị xây dựng trình Hội nghị Trung ương 7 (tháng 5-2013) Đề án tổng thể cải cách cơ bản chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công đến năm 2020 cùng các đề án có liên quan khác. Xác định những quan điểm, nguyên tắc và định hướng cải cách cơ bản chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công; chú trọng các chính sách, biện pháp tích cực tạo nguồn, khắc phục tình trạng lâu nay nhiều đề xuất hay nhưng không khả thi do thiếu nguồn. Phải chăng cần gắn cải cách tiền lương thực chất và đồng bộ hơn với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, biên chế; tái cấu trúc nền tài chính quốc gia, đơn vị sự nghiệp công, doanh nghiệp nhà nước?...

Thưa các đồng chí,

Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này đều là những vấn đề rất khó, phức tạp, nhạy cảm và rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước, không chỉ trong nhiệm kỳ này mà cả các nhiệm kỳ tiếp theo và về lâu dài. Mặc dù đã được Bộ Chính trị chỉ đạo nghiên cứu, chuẩn bị rất nghiêm túc, công phu, nhưng chắc chắn còn nhiều hạn chế. Đề nghị Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.

Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn.

--------------------------------

(*) Đầu đề là của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Nguồn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam